(1) Viết y trong trường hợp từ ấy có nguồn gốc Hán Việt và đứng một mình, thí dụ: y phục, y sĩ, y tế, ý nghĩa, ý tưởng, ý nhị..., hoặc y được sử dụng như một phụ âm đi đầu, thí dụ: yêm, yên, yến, yết, yêu, yếu...
(2) Viết y trong tên riêng. Thí dụ: Lý Thường Kiệt, Như Ý, nước Mỹ, Mỹ Tho, v.v... Trừ trường hợp chữ Sĩ và Sỹ: hàng trăm năm trước, đã có những người được đặt tên Sỹ hoặc Sĩ, đồng thời có hai họ Nguyễn Sỹ và Nguyễn Sĩ.
(3) Viết y những từ ngữ gốc Hán Việt sau các mẫu tự H, K, L, M, T, và QU. Thí dụ: hy vọng, kỷ yếu, lý thuyết, mỹ thuật, tỷ lệ, quý vị...
Còn những từ bé tí, chi li, tỉ mỉ, xỉ vả, i tờ, í ới,… viết i vì không có gốc Hán Việt.
Những quy tắc trên đã được đại đa số người miền Nam tuân theo, trừ một vài người cố tình viết khác đi, do lập dị, như một ông thi sĩ nọ làm thơ ca tụng “tình iêu”, hoặc... bị bệnh tâm thần, chẳng hạn nhà thơ Nguyễn Ngu Í
(st)